Đỉnh cao của nghệ thuật quân sự trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954

Cập nhật: 08/05/2023 15:47

 

                                                                                 ThS. Nguyễn Thị Hoa
Giảng viên khoa Xây dựng Đảng

69 năm trôi qua nhưng chiến dịch Điện Biên Phủ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, Chi Lăng hay một đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của chủ nghĩa đế quốc. Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ là thắng lợi của nhiều yếu tố mà trong đó là thắng lợi của nghệ thuật quân sự tài tình của Đảng ta. Đó là sự kết hợp trên cả ba lĩnh vực gồm chỉ đạo, điều hành chiến tranh (chiến lược quân sự), nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật.

Chủ tịch Hồ Chí Minh (giữa), Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp (ngoài cùng  bên phải)
và các đồng chí trong Bộ chỉ huy chiến dịch

Thứ nhất là nghệ thuật phân tích, đánh giá đúng âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp

Sau gần tám năm tiến hành chiến tranh xâm lược, thực dân Pháp bị tổn thất nặng nề, thiệt hại hơn 30 vạn quân, các kế hoạch xâm lược liên tiếp bị thất bại. Quân đội xâm lược Pháp tuy tăng lên gần 50 vạn, nhưng năng lực chiến đấu lại sút kém vì tinh thần, thiếu sĩ quan chỉ huy, ngụy binh chiếm tỉ lệ lớn, không giải quyết được mâu thuẫn giữ tập trung và phân tán lực lượng. Vào tháng 5/1953, Chính phủ Pháp cử Tướng Nava, Tham mưu trưởng lục quân khối Trung Âu của NATO sang làm Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy đội quân Pháp ở Đông Dương thay cho tướng Xalăng. Nava đã đề ra kế hoạch tổng quát về chính trị, quân sự nhằm đảo ngược tình thế. Với việc thực hiện kế hoạch này, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều tin tưởng trong 18 tháng sẽ “chuyển bại thành thắng”.  

Trước âm mưu và thủ đoạn của địch Đảng ta phân tích kế hoạch Nava chỉ là sản phẩm của thế thua, thế thất bại nên chưa đựng đầy mâu thuẫn và những hạn chế không thể khắc phục được. Đầu tháng 9/1953, Tổng quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu tổ chức nghiên cứu tình hình để xây dựng kế hoạch tác chiến. Từ tháng 1/1953, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: “Phương hướng chiến lược của ta là tạm thời “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do. Như thế để tạo điều kiện hoàn toàn giải phóng Bắc Bộ”[1]. “Do phương hướng chiến lược này, quân đội ta phải đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồng thời phải hoạt động mạnh sau lưng địch. Bất kỳ ở miền núi hay đồng bằng, quân đội ta phải chuẩn bị đánh những lực lượng, những cứ điểm ngày càng mạnh của địch”[2]. Đó là quyết sách cực kỳ quan trọng của Đảng để lãnh đạo quan và dân ta tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trên mặt trận quân sự.

Khi Bộ chỉ huy quân sự của Pháp chọn Điện Biên Phủ với âm mưu chiếm giữ vị trí chiến lược hết sức quan trọng, bảo vệ kinh đô Luông Pha Băng, làm bàn đạp để chiếm lại Tây Bắc, uy hiếp hậu phương của ta, buộc ta phải phân tán binh lực giữ đồng bằng và rừng núi. Với lực lượng đông, hỏa lực mạnh, công sự vững chắc các tướng tá của Pháp và Mỹ xác nhận đây là một “tập đoàn cứ điểm đáng sợ”, “một pháo đài bất khả xâm phạm”.  Bộ chính trị đã phân tích và kết luận: Về phía địch:  Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng có hai nhược điểm lớn: Thứ nhất là, tính cứng nhắc và thụ động của hệ thống phòng ngự bằng Tập đoàn cứ điểm mà quân địch đã lựa chọn: Điện Biên Phủ là một kết cấu chặt chẽ của nhiều cứ điểm nhưng trong thực tế vẫn là những cứ điểm tách rời. Khu trung tâm phía đông, đông bắc khá mạnh nhưng phía tây sơ hở. Quân địch ở đó tuy đông nhưng khi một cứ điểm bị tấn công thì lực lượng đối phó chủ yếu vẫn là lực lượng của chính cứ điểm đó chứ không phải là các cứ điểm khác. Nhược điểm này cho phép ta tập trung sức mạnh tiêu diệt và bẻ rời từng cứ điểm để làm suy yếu địch. Thứ hai là, tính cô lập của “con nhím Điện Biên Phủ”. Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn nằm chơ vơ giữa mênh mông núi rừng Tây Bắc lại rất xa căn cứ hậu phương nhất là những căn cứ không quân lớn của địch, mọi việc tăng viện và tiếp tế đều phải dựa vào đường không. Nếu đường không bị cô lập hay cắt đứt nó sẽ nhanh chóng mất sức chiến đấu và việc khống chế sân bay Mường Thanh không còn là điều khó khăn với bộ đội ta lúc này. Về phía ta: Quân đội ta chất lượng đã được nâng cao thêm một bước trong chỉnh huấn, chỉnh quân, với những kinh nghiệm sẵn có và sự tiến bộ về trang bị kỹ thuật, quân đội ta tới đây đã có thể đánh được tập đoàn cứ điểm; Vấn đề đường sá, tiếp tế cho chiến dịch đúng là một khó khăn lớn. Nhưng với quyết tâm của toàn Đảng, cả hậu phương đang chuyển động mạnh trong cải cách ruộng đất sẽ tập trung toàn lực chi viện cho tiền tuyến và nhất định cung cấp bảo đảm cho chiến dịch.

Như vậy, với việc phân tích đánh giá đúng tình hình, âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp Đảng ta nhận định: Điện Biên Phủ là cơ hội đánh tiêu diệt lớn để từ đó có thể chấm dứt chiến tranh nên Trung ương Đảng đã hạ quyết tâm phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo bước ngoặt mới trong chiến tranh trước khi đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương.

Thứ hai là vận dụng phương châm tác chiến phù hợp, chuyển từ phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”

Đây là nét đặc sắc, sáng tạo nhất và quyết định trực tiếp đến thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tế và so sánh tương quan lực lượng địch, ta trên chiến trường, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã cân nhắc và rất khó khăn mới đưa ra quyết định chuyển từ phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.

Ngày 5/1/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên đường ra mặt trận cùng với bộ phận cơ quan chỉ huy chiến dịch. Trước khi lên đường, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý Đại tướng về những trở ngại trong việc chỉ đạo các chiến trường khác khi ở xa Trung ương và Người nhấn mạnh: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”[3]. Trước đó, ngày 29/12/1953, Cơ quan tiền phương chiến dịch họp tại hang Thẩm Púa, km 15 đường Tuần Giáo – Điện Biên bàn kế hoạch tác chiến dự kiến phương châm chiến dịch lúc này là có thể “đánh nhanh, giải quyết nhanh”.

Đến ngày 14/1/1954, nhận thấy có điều không ổn nếu thực hiện “đánh nhanh, giải quyết nhanh” và theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp có ba trở ngại lớn nếu chúng ta vẫn tiếp tục phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”:  Thứ nhất, bộ đội chủ lực đến nay chỉ tiêu diệt cao nhất là tiểu đoàn địch tăng cường có công sự vững chắc ở Nghĩa Lộ. Ở Nà Sản, bộ đội mới đánh vào vị trí tiểu đoàn, công sự dã chiến nằm trong tập đoàn cứ điểm, vẫn có những trận không đạt yêu cầu, bị thương vong lớn. Thứ hai, bộ đội chưa quen đánh hiệp đồng binh chủng bộ binh, pháo binh với quy mô lớn, chưa hề qua diễn tập, nếu thực hiện sẽ lúng túng, không phối hợp tốt. Thậm chí có trung đoàn trưởng xin trả pháo vì không biết phối hợp với bộ binh như thế nào. Thứ ba, bộ đội vốn chỉ quen tác chiến ban đêm, ở những địa hình dễ ẩn náu, chưa có kinh nghiệm đánh công kiên ban ngày trên địa bàn bằng phẳng, nên dễ bị máy bay, pháo binh địch ném bom, bắn phá sát thương, vì tập đoàn cứ điểm nằm trên cánh đồng Mường Thanh rộng 6-7km, dài khoảng 15km.

Đồng thời khi phân tích các yếu tố về so sánh lực lượng, thế trận và các điểm yếu của tập đoàn cứ điểm. Đại tướng đã chỉ đạo chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” quân ta đã từng bước hình thành thế trận “trói chặt” địch lại bởi hệ thống chiến hào dài hàng trăm ki-lô-mét được ken dày và ngày càng siết chặt từng cứ điểm, cụm cứ điểm, từng phân khu.  Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của chiến dịch.

Thứ ba, nghệ thuật tổ chức chiến trường phân tán lực lượng địch

          Mặc dù dự kiến mở màn Chiến dịch vào ngày 25/01/1954 (sau quyết định vào ngày 13/3/1954), nhưng ngay từ ngày 06/12/1953, Bộ Tư lệnh đã lệnh cho Đại đoàn 316 xuất hiện ở Tuần Giáo cách Điện Biên Phủ chừng 50 km; đồng thời, Trung đoàn 36 của Đại đoàn 308 (đang ở Sơn La) nhanh chóng hành quân lên Nam – Tây Nam Điện Biên Phủ. Trung đoàn sơn pháo 675 của Đại đoàn công pháo 351 được lệnh lên đường. Đại đoàn 312 đang đóng quân ở Yên Bái cũng hành quân lên Điện Biên Phủ. Ngay sau khi nắm được thông tin Lai Châu bị uy hiếp, tướng Cônhi lệnh cho quân Pháp đang đóng giữ ở đây thực hiện cuộc hành binh mang tên Pônlúych, rút tất cả lực lượng về Điện Biên Phủ, Ngày 12/12/1953, thị xã Lai Châu được giải phóng sau gần một thế kỷ bị thực dân Pháp chiếm đóng. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị cô lập giữa vùng rừng núi Tây Bắc rộng lớn.

Sau khi Bộ chỉ huy Pháp đưa quân lên Điện Biên Phủ, biến nơi đây thành nơi tập trung binh lực thứ hai, Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu tiếp tục điều lực lượng các Đại đoàn 304 và 325 phối hợp với các đơn vị của Liên khu 4, Liên khu 5 và Pathét Lào mở chiến dịch tiến công địch ở Trung Lào, Hạ Lào, Tổng chỉ huy Nava lập tức điều động 6 tiểu đoàn dù cùng một tiểu đoàn pháo từ đồng bằng Bắc Bộ sang Trung Lào đối phó. Chiến dịch Trung Lào mở màn vào cuối tháng 12/1953. Sau một thời gian tiến công, toàn bộ địa bàn tỉnh Khăm Muộn với hàng vạn dân được giải phóng, phòng tuyến Trung Lào của địch bị phá vỡ. Để cứu nguy, Nava tiếp tục điều động thêm một binh đoàn cơ động và một binh đoàn không vận từ đồng bằng Bắc Bộ sang, xây dựng tại Xênô, một địa điểm gần Xanakhét, trên đường số 9, thành một tập đoàn cứ điểm mới với lực lượng lên tới 10 tiểu đoàn. Xênô trở thành nơi tập trung binh lực thứ 3 với tên gọi là “binh đoàn tác chiến Trung Lào”. Như vậy, từ việc “chọn nơi sơ hở mà đánh” nhằm phân tán suy yếu lực lượng địch đến quyết định nhằm vào căn cứ mạnh nhất của địch ở Điện Biên Phủ để đánh trận quyết chiến chiến lược là sự chỉ đạo kiên quyết, linh hoạt, kịp thời, sáng tạo của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Sau 56 ngày đêm chiến dấu kiên cường và anh dũng quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 sinh lực địch, thu toàn bộ vũ khí trang bị quân sự, bắn rơi nhiều máy bay xóa sổ hoàn toàn tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương của quân đội Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng một đòn quyết định vào dã tâm xâm lược của kẻ thù, đánh bại kế hoạch quân sự Navarre, làm sụp đổ niềm hy vọng của các giới chính trị và quân sự ở Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh. Ngày 21/7/1954, Pháp buộc phải ký hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi, tạo cơ sở cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng lợi ở Hội nghị Giơnevơ.

Thắng lợi oanh liệt của chiến dịch Điện Biên Phủ đánh dấu đỉnh cao phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp; đồng thời là cơ sở quan trọng để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta vững tin dám đánh, quyết đánh và đánh thắng Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước./.

Ghi chú:

[1], [2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1998, t.14, tr.130.

[3] Võ Nguyên Giáp: Tổng tập hồi ký, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2018, tr.900.