ThS. Phạm Thị Dung
Khoa Xây dựng Đảng
Đại thắng mùa Xuân 1975 là chiến công chói lọi, là thắng lợi vĩ đại của toàn bộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thắng lợi phản ánh nghị lực phi thường của nhân dân ta; đồng thời, khẳng định ý chí, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Với thắng lợi oanh liệt đó, nhân dân ta hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc kéo dài liên tục trong 30 năm, bắt đầu từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, tiếp đó là 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và 21 năm bền bỉ đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Thắng lợi đó là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới đối với đất nước ta - kỷ nguyên độc lập, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 - biểu tượng của tinh thần chiến đấu kiên cường, bền bỉ toàn dân tộc trong suốt 21 năm.
Năm 1954, thực dân Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ, buộc phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954) rút khỏi Đông Dương. Tuy nhiên, ngay sau đó, thực hiện chính sách “lấp chỗ trống”, đế quốc Mỹ nhảy vào tiến hành chiến tranh xâm lược, âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới, một căn cứ quân sự phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Để thực hiện mưu đồ trên, Mỹ dựng lên chính quyền, quân đội tay sai, ra sức phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, đàn áp phong trào cách mạng miền Nam.
Chỉ trong vòng 4 năm (1954 - 1958), cả miền Nam tổn thất 9/10 số cán bộ, đảng viên; gần 90 vạn đồng bào yêu nước bị bắt, tù đày; gần 20 vạn bị tra tấn, giết hại... Trước âm mưu, hành động xâm lược của địch, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau: miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn nằm dưới sự đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và tay sai. Kẻ thù của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến lúc này là đế quốc Mỹ, đứng đầu thế giới tư bản chủ nghĩa với tiềm lực kinh tế, quân sự rất hùng mạnh. Để đương đầu, đánh thắng kẻ thù đó, đòi hỏi nhân dân Việt Nam phải có sức mạnh rất lớn - sức mạnh chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, hay nói một cách khác, đó là sức mạnh khát vọng hòa bình và thống nhất đất nước, tập trung cao độ trước hết ở đường lối kháng chiến.
Trên cơ sở phân tích đặc điểm tình hình trong nước, bối cảnh quốc tế cũng như khu vực có liên quan, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng (khóa II) lần thứ 15 (đầu năm 1959) và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960) đã vạch ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước độc lập tự chủ, đúng đắn sáng tạo, đó là: Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, tiến hành đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập, dân chủ, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Từ năm 1965, để cứu nguy cho chế độ Sài Gòn, Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân một số nước đồng minh, nhiều loại vũ khí, trang bị cùng phương tiện chiến tranh hiện đại vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam; đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc Việt Nam. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương Đảng (khóa III) lần thứ 12 đã thêm một lần nữa khẳng định nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng thiêng của cả dân tộc, của nhân dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc; từ đó đề ra quyết tâm: động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà.
Đường lối kháng chiến do Đảng đề ra đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước, thực sự trở thành ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nhau đoàn kết phát huy sức mạnh tổng hợp vì lý tưởng cách mạng cao đẹp mà lịch sử đặt ra. Sức mạnh đấu tranh nhờ đó được biểu hiện phong phú, nhân lên gấp bội, biến thành hành động thực tiễn qua nhiều phong trào thi đua yêu nước sôi nổi khắp cả nước, từ hậu phương đến tiền tuyến.
Các phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, thanh niên “ba sẵn sàng”, phụ nữ “ba đảm đang”... ở miền Bắc; các phong trào “Bám đất, giữ làng”, “Một tấc không đi, một li không dời”, “Giết giặc lập công”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”... ở miền Nam; hay quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”... trên tuyến chi viện chiến lược Bắc – Nam phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Tất cả đều hướng đến mục tiêu độc lập, hòa bình và thống nhất non sông.
Bằng sức mạnh đó, trải qua gần 20 năm liên tục chiến đấu anh dũng kiên cường, bền bỉ, quân dân Việt Nam lần lượt từng bước đánh bại các chiến lược chiến tranh của kẻ thù: chiến tranh đơn phương, “tố cộng, diệt cộng” (1954 - 1960), “chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), “chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973), buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri (1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Đây là thắng lợi cơ bản, mở ra bước ngoặt mới cho sự nghiệp kháng chiến.
Quyết tâm giành toàn thắng của cả dân tộc
Với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, tuy rút quân viễn chinh về nước, song đế quốc Mỹ lại lập ra bộ chỉ huy quân sự trá hình, tiếp tục viện trợ cho chính quyền, quân đội Sài Gòn ra sức phá hoại Hiệp định hòa bình vừa mới ký kết, hòng kéo dài chiến tranh xâm lược.
Về phía cách mạng, chúng ta thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pa-ri, nhưng trước hành động phá hoại trắng trợn, có hệ thống của địch, buộc nhân dân ta phải tiếp tục đấu tranh để giữ vững thành quả cách mạng, từ đó tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Hội nghị Trung ương Đảng (khóa III) lần thứ 21 (7/1973) đã khẳng định: bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam vẫn là con đường bạo lực, do đó phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công để giành toàn thắng.
Đến cuối năm 1974, đầu năm 1975, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Đáp ứng yêu cầu cấp cách mạng đặt ra, Đảng họp Hội nghị Bộ Chính trị (30/9 - 7/10/1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (18/12/1974 - 8/1/1975), chính thức hạ quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng, toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta; tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam.
Thực hiện quyết tâm mà Bộ Chính trị đề ra, cả dân tộc “ra quân” trong mùa Xuân 1975 lịch sử. Chưa bao giờ, khát vọng hòa bình, thống nhất non sông của quân dân ta diễn ra sục sôi cao trào như thời điểm này. Chỉ ba tháng đầu năm 1975, hậu phương miền Bắc đã dốc sức đưa vào chiến trường miền Nam gần 12 vạn cán bộ, chiến sĩ; chi viện 230 nghìn tấn vật chất các loại, bảo đảm 81% vũ khí, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải...
Sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam thời kỳ này không chỉ tạo nên sức mạnh áp đảo về thế và lực so với quân địch, phục vụ tốt yêu cầu Tổng tiến công và nổi dậy, mà còn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng vùng giải phóng trên tất cả các mặt: kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, y tế... chuẩn bị cho việc tiếp quản vùng giải phóng khi chiến tranh kết thúc.
Được sự chi viện to lớn của miền Bắc, trên khắp chiến trường miền Nam, quân dân ta ra sức chuẩn bị các mặt cho trận quyết chiến quyết định cuối cùng. Chưa bao giờ, các phong trào đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận, ngoại giao diễn ra sôi nổi như thời gian này, đẩy chính quyền, quân đội Sài Gòn lún sâu hơn vào tình thế khó khăn, hoàn toàn bị cô lập. Sức mạnh chiến đấu từ hơn 20 năm được dồn lại cho thời khắc lịch sử này.
Sau một thời gian chuẩn bị mọi mặt tạo thế, tạo lực, ngày 4/3/1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân ta bắt đầu, diễn ra với ba đòn tiến công chiến lược lớn: Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4/3 đến 3/4/1975), tiến công giải phóng Huế - Đà Nẵng (từ 21/3 đến 29/3/1975) và Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ 26/4 đến 30/4/1975). Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã diễn ra trong 55 ngày đêm, với tốc độ thần kỳ “một ngày bằng 20 năm”.
Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ chiến thắng của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Dinh Độc Lập - Phủ Tổng thống ngụy - toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn bị bắt và phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Ngay sau đó, các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và các đảo còn lại như Thổ Chu, Côn Đảo, Phú Quốc đã được giải phóng. Cả miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, giang sơn liền một dải từ Móng Cái đến mũi Cà Mau. Nhân dân ta đã thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào và chiến sỹ cả nước như thấy có hình bóng Bác trong ngày vui toàn thắng.
Nhân dân Sài Gòn dự mít tinh mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng
(Ảnh tư liệu)
Đại thắng mùa Xuân 1975 là một chiến thắng vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Đó là chiến thắng của chính nghĩa và nhân văn trước phi nghĩa và bạo tàn; chiến thắng của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trước chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa chống cộng do đế quốc Mỹ đứng đầu. Đó không phải là chiến thắng của những người trong cuộc nội chiến “huynh đệ tương tàn”, không phải là chiến thắng của miền này đối với miền kia trên đất nước Việt Nam như sự xuyên tạc trắng trợn hoặc cố tình hiểu sai của thế lực thù địch; mà là chiến thắng của ý chí thống nhất và khát vọng hòa bình, độc lập, tự do của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trước kẻ xâm lược. Dân tộc ta, với ý chí thống nhất và khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, chấp nhận gian khổ, hy sinh, đứng lên chiến đấu để bảo vệ quyền được sống trong tự do và độc lập, thống nhất đất nước, khiến cả thế giới kính phục, gọi Việt Nam là “lương tri của thời đại”. Chiến thắng vĩ đại của nhân dân Việt Nam góp phần loại trừ “một tội ác chống nhân loại”[1]; được cả thế giới, trong đó có cả những học giả, chính khách, tướng lĩnh Mỹ từng trực tiếp tham gia chiến tranh hết lời ca ngợi, xem đó như là một biểu tượng của tinh thần anh dũng, lòng quả cảm, ý chí không chịu khuất phục trước thế lực đế quốc hung bạo.
47 năm trôi qua, ý chí và khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc cũng như sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã và đang được Đảng và nhân ta phát huy cao độ trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập hiện nay với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh./.
[1] Chiến tranh Việt Nam nhìn từ phía bên kia, Nxb Dân trí, H. 2010, tr. 225