Cách đây 109 năm, ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành với ý chí mãnh liệt, lòng yêu nước thương dân sâu sắc đã quyết tâm ra đi thực hiện hoài bão giải phóng nước nhà khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc.
Bến Nhà Rồng – nơi Bác Hồ bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước (ảnh sưu tầm)
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược Việt Nam và chính thức đặt ách thống trị lên đất nước ta vào năm 1884. Triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã từng bước nhượng bộ, đầu hàng rồi làm tay sai cho thực dân Pháp. Trong khi đó, rất nhiều phong trào yêu nước chống Pháp đã nổ ra ở khắp ba miền đất nước. Đó là các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến như phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi lãnh đạo, phong trào nổi dậy của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Các phong trào này đều gây được tiếng vang lớn nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Sự thất bại này chứng minh tính lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến trước thời cuộc.
Thay thế cho Cần Vương là những phong trào theo hệ tư tưởng tư sản trong luồng gió mới do những trí thức yêu nước mẫn cảm với thời cuộc đứng ra khởi xướng và lãnh đạo. Các phong trào yêu nước tiêu biểu như: phong trào Đông Du do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo, phong trào Duy Tân do cụ Phan Châu Trinh lãnh đạo. Tuy nhiên, các phong trào chỉ rộ lên trong một thời gian ngắn rồi đều bị kẻ thù dập tắt. Các cuộc đấu tranh yêu nước, chống Pháp vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đã lần lượt thất bại, đất nước rơi vào tình thế “dường như trong đêm tối không có đường ra”. Điều này thể hiện mâu thuẫn giữa sức sống, tinh thần đấu tranh anh dũng, bền bĩ của dân tộc với sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, về giai cấp tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh.
Trong những ngày chưa xuất dương, Nguyễn Tất Thành suy tư, trăn trở nhiều đến con đường và phương pháp cứu nước của các bậc tiền bối trước đó. Người nghiên cứu cuộc khởi nghĩa Hương Khê chống thực dân Pháp do Phan Đình Phùng lãnh đạo, nghiên cứu về phong trào nông dân chống thực dân Pháp do Hoàng Hoa Thám tổ chức và lãnh đạo, nghiên cứu về xu hướng cứu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh thần yêu nước và dũng khí cứu nước của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh nhưng không tiếp thu phương pháp cứu nước của các Cụ và Người đã chọn một hướng đi khác. Sau này, nhìn lại con đường cứu nước chống Pháp của cha ông, Người đã: “rất khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Vì: Cụ Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Người nhận điều đó là sai lầm, chẳng khác gì xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách, phong cách phong kiến”(1). Người từ chối con đường Đông Du vì cảm thấy rằng con đường đó không thể đưa đến thành công. Ngay từ lúc trạc tuổi mười ba, Người lần đầu tiên được biết đến ba chữ Pháp: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, Người thấy rõ và quyết định con đường nên đi, đó là sang tận nước Pháp. Bởi “điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức được và nó dẫn Người đi đúng hướng là: Nguồn gốc những đau khổ và áp bức dân tộc là ở ngay tại “chính quốc”, ở nước đế quốc thống trị dân tộc mình”(2). Quyết định này mở ra bước ngoặt lớn trong cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam.

Tàu Amiral Latouche Tresville, con tàu đã đưa Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước (ảnh sưu tầm)
Ngày 5/6/1911, khi cả dân tộc đang đắm chìm trong đêm dài nô lệ chưa tìm được lối ra cho sự nghiệp giải phóng dân tộc thì người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Hành trang Người mang theo là tấm lòng nồng nàn yêu nước, thương dân và hoài bão cứu nước, cứu dân. Mục đích của chuyến đi ấy đã được Người khẳng định: Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta.
Cuộc hành trình của Nguyễn Tất Thành qua nhiều nước tư bản, đế quốc, ở nhiều châu lục càng làm sáng tỏ tính chất đúng đắn của mục đích đi tìm đường cứu nước. Người đã xúc động trước cảnh khổ cực, bị áp bức của nhân dân những nước đi qua, nó giống như đời sống của đồng bào mình ở quê hương. Người nhận thấy ở đâu nhân dân cũng có mong muốn chung là thoát khỏi ách thống trị, áp bức. Từ lòng yêu thương đồng bào, Hồ Chí Minh mở rộng đến sự đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ trên khắp thế giới. Ở Người đã nảy sinh ý thức về sự cần thiết phải đoàn kết những người bị áp bức để đấu tranh chống kẻ thù chung, cùng nhau thực hiện một nguyện vọng chung là độc lập, tự do.
Trên suốt chặng đường bôn ba, cuộc sống đầy gian khổ không làm Người chùn bước, trái lại, càng tôi luyện, hun đúc lòng yêu nước nồng nàn với mục tiêu giải phóng dân tộc kiên định. Người tranh thủ mọi thời cơ để học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa. Chính chủ nghĩa yêu nước cùng với những năm tháng tìm tòi không mệt mỏi về lý luận và hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế, người thanh niên Việt Nam Nguyễn Tất Thành bất chấp mọi hiểm nguy, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành nhà hoạt động quốc tế xuất sắc Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1917, Người từ Anh trở về Pháp. Bắt đầu từ đây, người thanh niên Nguyễn Tất Thành có nhiều cuộc tiếp xúc với các nhà văn hóa, trí thức, tham gia các sinh hoạt sôi nổi. Năm 1919, Nguyễn Tất Thành vào Đảng Xã hội Pháp với một lý do rất đơn giản: “Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái”(3). Cũng năm 1919, nhân dịp Hội nghị hòa bình được triệu tập tại Vécxây, nhân danh những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam đòi các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho Việt Nam nhưng bản yêu sách đó đã không được chấp nhận. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình.
Cuộc hành trình qua các châu lục và những năm trở lại sống trên đất Pháp đã nâng cao sự hiểu biết thực tiễn và lý luận của Nguyễn Ái Quốc, đã làm cho Người từ một nhà yêu nước trở thành một người lao động, một người công nhân thực sự, dù không sống, lao động trong môi trường công nhân, song có “đầy đủ phẩm chất đạo đức, tâm lý vô sản”. Quá trình này có những chuyển biến quan trọng. Những khái niệm trước đó đối với Nguời có vẻ xa lạ, khó hiểu, như “chủ nghĩa Bônsêvích”, “cách mạng vô sản”, “chủ nghĩa tư bản”, “chế độ thuộc địa”… nay dần dần có ý nghĩa cụ thể hơn, có nội dung sâu sắc hơn. Kết quả của hoạt động thực tiễn và việc tiếp nhận lý luận ban đầu càng làm sáng tỏ hơn con đường cứu nước mà Người đang đi tìm và nâng cao hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội. Người quyết định đứng về phía Quốc tế Cộng sản vì “Quốc tế thứ ba đoàn kết với các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân áp bức” và khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, thì Người đã bỏ phiếu cho Đệ tam Quốc tế, tán thành Quốc tế thứ ba và hoàn toàn tin theo Lênin.

Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội Tours năm 1920 (ảnh sưu tầm)
Luận cương của Lênin đã giải đáp cho Người những điều mà Người đang nung nấu, đang mong đợi. Sau này, Người nhớ lại: Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Luận cương đã giúp cho Người tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam, mở ra một bước ngoặt trong lịch sử dân tộc. Sau khi đọc Luận cương, Người đã tiếp thu chủ nghĩa Lênin một cách tự giác và khẳng định: “Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III”. Cũng từ đây, Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu nước trở thành người cộng sản.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, được trang bị một vốn văn hóa, vốn chính trị và vốn sống thực tiễn, một tầm nhìn rộng mở, một tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, cuối cùng Người đã rút ra được kết luận quan trọng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(4). Kết luận đó được rút ra từ sự kết tinh của lòng yêu nước và tư chất khoa học, trí tuệ, bản lĩnh, tầm nhìn và cách nhìn cùng với hoài bão cứu nước, cứu dân, giúp đồng bào thoát khỏi gông cùm nô lệ của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Và sau hành trình 30 năm, ngày 28/1/1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, giành lại chính quyền về tay nhân dân, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập và dân chủ. Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến thần thánh đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hơn một thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày Người rời Bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm con đường giải phóng dân tộc, chúng ta càng thấy tầm vóc lớn lao và ý nghĩa lịch sử vĩ đại của sự kiện này. Từ một người đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc. Người vẫn mãi là tấm gương sáng ngời tinh thần yêu nước, tinh thần sẵn sàng xả thân, hy sinh vì đất nước, là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho các thế hệ người Việt Nam học tập noi theo./.
Nguyễn Thị Hằng
Phòng Tổ chức, hành chính, thông tin, tư liệu
Chú thích:
(1) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nôi, 1986, tr.13.
(2) Nguyễn Khánh Toàn: Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa cộng sản khoa học. ( Xem: Tìm hiểu một số vấn đề trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh), Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1982, tr. 14.
(3) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr.61.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.289.